Với bất kỳ loại giao dịch đầu tư nào thì các nhà đầu tư hay các nhà đầu cơ, đều muốn giao dịch với mức lợi nhuận cao nhất. Dưới đây là top 5 chỉ bảo kỹ thuật mà các nhà đầu tư nên sử dụng trong phân tích kỹ thuật.
Moving Averages (MA)
Ảnh: Đường trung bình động MA
Một trong 5 chỉ báo đơn giản, được sử dụng rộng rãi mà tôi muốn nói đến trong phân tích kỹ thuật là đường trung bình động (MA). Đường trung bình động là mức giá trung bình trong một khoảng thời gian đã xác định cho một cổ phiếu hay hàng hóa nào đó
Ví dụ: MA năm kỳ sẽ là mức trung bình của giá đóng cửa trong năm ngày, bao gồm cả giai đoạn hiện tại. Nếu chỉ báo này sử dụng trong ngày, việc tính toán sẽ tiến hành trên dữ liệu giá hiện tại thay cho giá đóng cửa.
Tín hiệu mua được tạo ra khi giá vượt qua đường trung bình động MA từ dưới tâm lý tăng giá, trong khi nghịch đảo là biểu hiện của tâm lý giảm giá, nên còn gọi là tín hiệu bán.
Có các phiên bản MA rất phức tạp hơn, như đường trung bình di chuyển theo cấp số nhân (EMA), đường trung bình di chuyển được điều chỉnh âm lượng và trung bình di chuyển có trọng số tuyến tính.
Đường trung bình động hội tụ (MACD)
Ảnh: Đường trung bình động hội tụ (MACD)
Đường chuyển động trung bình phân kỳ hội tụ, hay còn gọi là MACD, là một chỉ số thường được sử dụng và được phát triển bởi Gerald Appel. MACD có xu hướng theo chỉ báo động lượng sử dụng hai đường trung bình động và đường trung bình theo hàm mũ để xác định đà của tài sản. Thông thường đường MACD được tính bằng cách lấy đường EMA 12 ngày trừ đi EMA 26 ngày.
Tín hiệu tăng sẽ được tạo ra chỉ khi số MACD có giá trị dương, vì đường EMA có thời gian ngắn cao hơn (mạnh hơn) so với EMA thời gian dài hơn. Điều này biểu thị sự gia tăng động lượng. Tương tự, giá trị MACD âm là biểu thị cho tình hình giá giảm.
Nếu giá trị MACD âm giảm, có nhĩa là xu hướng giảm đang mất đà. Có nhiều cách để giải thích cho sự chuyển động của các dòng này như crossover; một sự giao nhau trong xu hướng tăng được báo hiệu khi báo cắt ngang trên đường tín hiệu theo chiều hướng đi lên.
Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI)
Ảnh: Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI)
Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) là chỉ số báo động lượng kỹ thuật. Nó nổ lực xác định tài sản liệu đang được mua hay bán quá mức trên thị trường không, từ đó nó cho biết liệu thị trường đã đứng đầu hay chạm đáy. Nếu các thị trường có chỉ số RSI trên 70 gọi là mua quá mức trên và dưới 30 thì được gọi là bán quá mức.
RSI có thể được sử dụng để tìm kiếm sự phân kỳ và dao động của các tín hiệu mua và bán quá mức. Sự phân kỳ xảy ra trong tình huống mà tài sản đang tạo ra một mức giá cao mới trong khi RSI không vượt ra khỏi mức giá cao trước đó, báo hiệu cho sự đảo chiều sắp đến. Nếu chỉ số RSI giảm xuống dưới mức thấp trước đó, thì một xác nhận cho sự đảo chiều sẽ được đưa ra
Để mang tính hiệu quả cao hơn, hãy quan tâm đến một thị trường có xu hướng hoặc một thị trường khác vì phân kỳ của RSI không phải là chỉ báo tốt trong trường hợp thị trường có xu hướng. RSI rất hữu ích nhất là khi được sử dụng bổ sung cho các chỉ số khác.
Stochastic
Ảnh: Stochastic
Nhà giao dịch chứng khoán nổi tiếng George Lane đã chỉ ra rằng, nếu giá đã có một xu hướng tăng trong ngày, thì giá đóng cửa sẽ có xu hướng ổn định ở gần mức cao nhất của phạm vi giá gần nhất trước đó Trái lại nếu giá trượt xuống, thì giá đóng cửa có chiều hướng tiến gần đến mức thấp hơn của phạm vi giá. Chỉ báo này dùng để đo lường mối quan hệ giữa giá tài sản đóng cửa và tài sản trong phạm vi ở một khoảng thời gian xác định. Bộ dao động Stochastic chứa đến hai dòng. Dòng % K và dòng % D (đường tín hiệu), là dạng được làm mịn của giá trị % K và được cho là quan trọng hơn.
Tín hiệu chính được hình thành bởi hai dòng này là khi % K vượt qua dòng% D. Tín hiệu tăng được hình thành. Tín hiệu giảm được tạo ra khi% K rơi qua% D theo hướng đi xuống. Sự khác biệt này cũng giúp xác định đảo ngược. Hình dạng của đáy và đỉnh Stochastic cũng sẽ hoạt động như một chỉ báo tốt.
Bollinger Bands
Ảnh: Bollinger Bands
Bollinger Band là các dải đo lường sự biến động được phát triển vào những năm 1980 bởi nhà phân tích tài chính John Bollinger. Là một chỉ số tốt để đo lường tình trạng mua và bán quá mức trên thị trường. Bollinger Bands được tạo thành từ 3 đường: đường trung tâm (xu hướng), đường trên (kháng cự) và đường dưới (hỗ trợ). Khi giá của hàng hóa ở mức không ổn định thì các dải có xu hướng mở rộng, trong khi trường hợp giá bị giới hạn thì có sự co lại.
Bollinger Bands được đánh giá là rất hữu ích với các nhà giao dịch đang nổ lực tạo ra bước ngoặt mới trong thị trường giới hạn phạm vi, mua khi giá giảm chạm vào dải dưới và ngược lại. Tuy nhiên, khi thị trường bắt đầu xu hướng, thì chỉ báo lại đưa ra tín hiệu sai, nhất là khi giá di chuyển ra khỏi phạm vi mà nó đang giao dịch. Bollinger Bands được cho là thích hợp với xu hướng tần số thấp theo sau.